Cà vạt – Sự tồn tại của một thứ bất tiện
Thế kỷ 16 được xem như là một cuộc cách mạng triệt để về y phục tại châu Âu, và cà vạt không ngoài vòng quay đó. Nếu như tại Pháp và Anh, giới quý tộc đổ xô theo trường phái mốt cổ áo thật to, viền ren và họa tiết diêm dúa thì ở một số quốc gia người ta lại chuộng cổ cồn áo thật nhỏ gọn, để tôn bật cái cà vạt quanh cổ.
Lịch sử đích thực
Năm 1635, khoảng 6 nghìn binh lính đã đến Paris để hộ tống vua Louis XIV và giáo chủ Richelieu, trong số đó có một lượng lớn lính đánh thuê người Croat. Những chiếc khăn rất đẹp và lạ quấn quanh cổ của những người Croat đã khuấy động sự quan tâm của mọi người. Những chiếc khăn này được làm bằng nhiều loại vải khác nhau, phân chia theo thứ bậc, từ những chất liệu vải thông thường dành cho người lính đến chất liệu cotton đẹp và lụa dành cho giới sỹ quan. Những người Pháp thích chưng diện đã ngay lập tức bắt chước theo kiểu dáng này, kiểu dáng cực kỳ mới mẻ đối với châu Âu.
Với những sỹ quan Pháp dũng cảm đã kinh qua cuộc chiến 30 năm (1618-1648, cuộc chiến bao gồm hầu hết các cường quốc châu Âu thời bấy giờ, diễn ra chủ yếu tại vùng nay là nước Đức) thì sự tiện lợi của những chiếc khăn của người Croat là ở chỗ nó khá thực dụng. Ngược lại với những chiếc cổ cồn thắt nơ phải luôn giữ màu trắng sạch thật cẩn thận, chiếc khăn kiểu này đơn giản, chỉ cần quàng lỏng lẻo vòng quanh cổ mà chẳng cần chăm sóc thêm. Nó cũng thanh lịch như một chiếc cổ cồn cao, được hồ cứng, mà lại nhẹ nhàng và dễ hơn khi sử dụng. Đồng thời vẫn tạo được dáng đẹp bên dưới những bộ tóc dài của những người lính.
Nỗi thống khổ của cà vạt
Là những kẻ khơi mào cho chuyện đeo cà vạt nhưng giới quân nhân lại nhanh chóng chán ghét nó nhất. Qua thời gian chiếc cà vạt trải qua bàn tay “sáng tạo” của quá nhiều người nên nó trở rất vô tích sự và vướng víu, xoay trở khó khăn, bất tiện khi ra chiến trường. Một số binh sĩ Pháp tự ý tẩy chay cà vạt nhưng đã bị trừng phạt thẳng cánh khiến mọi việc đâu lại hoàn đấy. Rồi chính giới sĩ quan trong lúc nhàn hạ lại “thiết kế” thêm một kiểu hành xác mới: cổ cồn dựng đứng và kẹp yết hầu như gông cùm. Buồn cười là chúng ta đành phải công nhận loại cổ áo này giúp cà vạt đẹp hẳn lên. Sang trọng nhưng vẫn rất dũng mãnh. Một vài kẻ rỗi hơi lại gắn thêm lông bờm ngựa cho sang, thể hiện bản lĩnh người lính hơn, khiến cái cổ của nhiều quý ông trở nên kỳ dị khó tả.
Cuối cùng cà vạt cũng được cải tiến mềm hơn nhưng dài và rắc rối thì vẫn như cũ, thậm chí còn dài hơn. Có những chiếc cà vạt bằng mousseline dài đến 2m, quấn quanh cổ cả mấy vòng, và cuối cùng thắt thành một cái nơ to đùng trước ngực. Từ thế kỷ 17 bắt đầu nổ ra cuộc chiến giữa hai phe cà vạt đen và cà vạt trắng. Lớp thanh niên thích thắt cà vạt đen, còn các bậc lão thành lại chỉ dùng cà vạt trắng. Cuộc chiến này kéo dài đến tận thế kỷ 19. Lớp trẻ cho rằng cà vạt đen mới là sự cấp tiến, còn cà vạt trắng chỉ là trò cổ hủ, trong khi lớp già lại rất bực mình cho rằng cà vạt đen đi ngược lại với lề thói cũ.
Thời kỳ “thịnh vượng nhất” của cà vạt ở châu Âu là vào giữa thế kỷ 19, khi mỗi ngày, người ta phải thắt đến 3 cà vạt thì mới được coi là “đúng điệu”. Chưa hết, riêng cái nơ cho cà vạt đã “hành hạ” người ta không ít: nó phải được làm bằng tơ lụa cực mềm và nhẹ. Tóm lại, mặc dù chỉ là một phụ kiện cho quần áo nhưng bản thân cà vạt cũng có phụ kiện cho riêng nó. Thời nay, cà vạt có đến tận trên 16 kiểu thắt, điều đó đủ thấy độ “đỏm dáng” của các quý ông.
Khởi nguồn của cà vạt hiện đại
Thế chiến thứ I, cà vạt vẫn to như một chiếc tạp dề, che gần kín cả ngực. Nhưng sau chiến tranh, các quý ông đã chuyển sang kiểu cà vạt 3 mảnh dễ thắt, giữ được hình dạng nguyên thủy, lại chắc chắn và đẹp hơn. Một phần do chế độ phân phối hà khắc, một phần do những chiếc cà vạt này rất dễ nhàu nát, xoắn lại, vừa mất thẩm mỹ nên phải là đi ủi lại nhiều lần. Kiểu cà vạt mới được ông chủ tiệm cà vạt ở New York – Jesse Langsdort thiết kế. Nhờ thiết kế này Jesse đã trở nên nổi tiếng và thu được “bộn” tiền. Cả thế giới dùng cà vạt 3 mảnh thay cho cà vạt một mảnh ngày xưa. Vào cuối thập kỷ 60 và đầu thập kỷ 70 của thế kỷ 20, những chiếc cà vạt có bản rộng tới 5 inch. Thời điểm đó, cà vạt bản rộng phù hợp với cổ áo jacket rộng hơn và chiếc cổ cồn cao hơn của áo sơ mi.
Cũng giống như quần áo của đàn ông cần phù hợp với cơ thể của họ, chiếc cà vạt cũng cần tạo nên sự cân bằng. Mặc dù rất nhiều chiếc cà vạt ngày nay không còn rộng như thế nhưng nơi mà nút thắt được tạo nên vẫn duy trì độ dày. Điều này làm cho việc thắt những chiếc nút nhỏ, lịch sự trở nên khó khăn hơn. Mối liên hệ giữa những nút thắt với những chiếc cổ của áo sơ mi cũng được coi là một điều hết sức quan trọng, có nghĩa là nó không được quá to để che hết chiếc cổ áo và cũng không nên quá nhỏ để bị chìm lấp so với cổ cồn của áo.
Chiều dài tiêu chuẩn của một chiếc cà vạt hiện đại là 140cm. Độ rộng của cà vạt là khoảng từ 8,9 – 9,5cm nhưng với những người trẻ, thời trang thì độ rộng khoảng 7,6 cm đang trở nên phổ biến và cà vạt thời trang ngày càng có vẻ hẹp lại.
Dù rằng ngày nay vẫn còn những nghệ sĩ làm nổi bật mình nhờ những kiểu thắt cà vạt “không giống ai” nhưng nhìn chung yêu cầu quan trọng nhất của cà vạt vẫn phải “hòa hợp” với quần áo. Và cà vạt sẽ là đề tài bất tận cho nhiều nhà thiết kế, ghi dấu ấn về sự lịch lãm, sang trọng và “gu” ăn mặc của một người đàn ông.
Nguồn gốc một cái tên
Những năm 1650, trong suốt giai đoạn trị vì của vua Louis XIV, chiếc khăn của người Croat đã được chấp nhận trong giới quý tộc Pháp. Thành ngữ thời trang à la croate ngay lập tức nhảy vào cuốn từ điển tiếng Pháp mới. Và nó vẫn còn tồn tại đến ngày nay với dạng la cravate. Rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng từ cravate (khăn, cà-vạt) trong tiếng Pháp là một cách nói lái từ Croat. Nhưng một số nguồn tư liệu khác lại nói rằng nguồn gốc của nó là tiếng Thổ Nhĩ Kỳ kyrabacs hoặc tiếng Hungari korbacs cả hai đều có nghĩa là roi da hoặc một vật mỏng, dài, hay như từ Krawatte (Đức), Corbata (Tây Ban Nha), hay Gravata của người Ý và Kravatt (Thụy Điển).
Các nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra từ cravate có ở Pháp trước khi những người Croat đến. Học giả Eustache Deschamps đã dùng chữ cravate từ thế kỷ 14, 15. Xa hơn nữa, nhà điêu khắc Cesare Vecellio đã viết một quyển sách, trong đó có nhắc chữ cravatta để chỉ những binh sĩ La Mã thắt nơ quanh cổ. Còn có giả thiết cravate là từ biến tấu của từ rabats tiếng Pháp có nghĩa là cái cổ cồn treo.
Dù người ta có tranh cãi về cái tên đến đâu đi nữa, thì có một điều hết sức chắc chắn: triều đình Pháp và các quân nhân đã bắt chước những người Croat. Những người lính Pháp bắt đầu trang trí cổ bằng một dải dây buộc, trong khi sỹ quan thì dùng lụa hoặc muslin có những đường thêu tinh tế. Ngay những người nghèo cũng đeo những chiếc cà vạt bằng vải cotton, thỉnh thoảng lại có viền bằng vải taffta màu đen. Đến thế kỷ 17, cà vạt chính thức được Châu Âu xem như phụ tùng cho lễ phục.
Vậy là, chúng ta đã biết sự hình thành của một món đồ thời trang không thể thiếu trong thế giới hiện đại. Người Pháp đã có công gìn giữ và phát triển văn hoá đeo cà vạt nhưng họ cũng không kém phần bảo thủ khi giữ mọi thứ phải ngay ngắn, chuẩn mực, mọi món đồ mặc trên người phải tông xoẹc tông (ton-sur-ton). Vì thế, có không ít người Pháp khó chịu với cách đeo cà vạt của vị tổng thống nước này. Hãy sang trang tiếp theo để biết, tổng thống đương nhiệm của Pháp, ông Francois Holland đeo cà vạt thế nào?